Phân tâm học căn bản – Sigmund Freud

Tác giả Sigmund Freud là một nhà phân tâm học người Áo được biết tới nhiều nhất bởi đóng góp vào sự phát triển của cả lý thuyết và thực hành các kỹ thuật phân tích tâm lý. Freud đồng thời được xem là cha đẻ của phân tâm học – môn khoa học nghiên cứu về phần vô thức của con người, khiến cho nhiều người nghi ngờ tính hiệu quả của việc chữa bệnh tâm thần theo cách truyền thống. Tới ngày hôm nay, cuộc tranh luận về lý thuyết phân tâm học vẫn chưa ngã ngũ, có rất nhiều người ủng hộ nhưng cũng không ít những kẻ phản đối kịch liệt. Được xem như một môn khoa học chính thống của thế kỷ 19, phân tâm học trước hết đi tìm hiểu những hành vi điên loạn, thoạt đầu các nhà phân tâm học sẽ hỏi về những giấc mơ của bệnh nhân và sau cùng là các cơ chế tâm lý xây dựng từ lúc bé cho tới lúc trưởng thành. Được đào tạo như một nhà khoa học, Freud trở thành bác sĩ vào năm 1882, ông quan tâm tới thôi miên và phát triển các ý tưởng đột phá trong chữa trị tâm thần từ khoảng 1890. Vào năm 1933, các tác phẩm của ông bị đốt hết dưới chính quyền Nazi, và Freud phải rời bỏ Áo tới London vào năm 1938, nơi ông mất ngay sau đó một năm.

“Cái Tôi và cái Nó“ là một tác phẩm đặc biệt, ở đây Freud đã trình bày một bản tổng hợp các giả thuyết được ông đề xuất vào những năm 1920 – đặc biệt là trong cuốn “Au delà du principe du plaisir”. Ông bắt đầu bằng việc chứng minh rằng mô hình phân chia bộ máy tâm trí thành vô thức, tiền ý thức và ý thức – được biết đến với tên gọi “định khu thứ nhất” (chia định khu bộ máy tâm trí) – không đủ để hiểu sự vận hành của bộ máy tâm trí, và cần phải mở rộng hơn. Xuất phát từ sự kháng cự rằng cái “tôi” của chủ thể đối kháng với khả năng đưa các ký ức bị dồn nén trở lại với ý thức, Freud đưa ra cách phân chia bộ máy tâm trí mới thành cái tôi, cái đó và cái siêu tôi, mô hình được biết đến với tên gọi là “định khu thứ hai”. Hai mô hình này không loại trừ nhau, ngược lại, chúng bổ sung cho nhau bởi chúng mô tả các hiện tượng tâm trí dưới nhiều góc độ khác nhau.

“Sâu xa hơn nguyên tắc không đổi“ chứng minh rằng nếu như chúng ta đẩy đến cùng cái logic, nguyên tắc đầu tiên này dẫn chúng ta đến một cái “Sâu xa hơn” không thể bác bỏ: “xung năng chết”. Cái chết dường như không chỉ là kì hạn không thể khác của mọi sự sống, mà phiền toái hơn, còn là cái đích cuối cùng của sự sống. Đây chính là kết luận mà ông đạt tới ở những trang cuối trong chứng minh của mình: “Niềm tin mà chúng tôi đã có được, niềm tin rằng đời sống tâm trí, thậm chí có thể là đời sống thần kinh nói chung, bị thống trị bởi xu hướng hạ thấp, duy trì sự bất biến và gạt bỏ căng thẳng bên trong do các kích thích gây ra (bằng nguyên tắc Nirvana, nếu chúng ta sử dụng cách diễn tả của Barbara Low), niềm tin ấy theo chúng tôi là một trong những lí do mạnh mẽ nhất làm cho chúng tôi tin vào sự tồn tại của xung năng chết”.

Chính sự thật này là điều mà Freud mời chúng ta khám phá từng bước trong suốt phần lớn nội dung tiểu luận. Nhưng sự thật này lại che giấu/che phủ một sự thật khác, cũng quan trọng như vậy, và sự thật ấy sẽ là nội dung của phần cuối cuốn sách: nếu như sự sống vẫn tiếp nối, bất chấp xung năng chết, là bởi vì có những sức mạnh khác kháng cự xung năng này, đó là “xung năng sống” hay “xung năng sinh tồn”.

Hang Cáo